mercredi 29 juillet 2020

NHẬT VỰNG truyện KHÔI HẠO








NHẬT VỰNG




    T ôi bắt đầu câu chuyện kể như lời sám hối. Ý chừng chẳng còn gì để mất và cũng chẳng sợ mất điều gì!

Tôi lao vào vòng xoáy đảo điên của cuộc sống như một mũi tên không phương hướng. Đập phá đời mình với tất cả trò chơi mà thiên hạ cho là thời thượng. Thời thượng đó các bạn. Thời thượng trong cái đời sống của một xã hội văn minh hiện đại với đầy rẫy những bẫy giăng. Tôi như con bọ ngơ ngác bay vào rồi chết gục không lối thoát. Và chợt giật mình khi biết mình đang vuốt ve thần chết, AIDS đang thăm hỏi tôi. Cơ thể bị bào mòn, hư hao đến quái gở… những giây phút của cuộc đời chậm chạp, nhạt lạc trôi qua như chiếc bánh xe vỡ lốp, nặng nề đến không tưởng. Những hạt đen mọc trên da người và những vết lở loét làm đau đớn thể xác lẫn tâm hồn hành hạ. Thôi thì đã vậy, chấp nhận với cái gọi là định mệnh và hân hoan đón nhận như một kẻ trộm mở được két sắt của lão nhà giàu bần tiện.

Ở tuổi ba mươi nửa đời, một ả gái vô tích sự lêu lỏng với những đêm thâu và ánh đèn đa sắc, những “guy”, những viên thuốc trắng vàng đỏ, những mũi kim nhọn lểu đâm vào ven, mong tìm cho mình chút khoái cảm… cuộc đời gác bỏ ngoài tai. Trong cái bóng tối hoang tưởng hư huyễn ấy, dường như không còn tìm thấy bóng mình. Tôi lăn vào vòng xoáy đảo điên như một con thiêu thân thích thú dưới ánh đèn vàng, khi tôi chỉ là một cô bé tuổi mười bốn ô mai xí muội và trong phút chốc tôi trở thành đàn bà. Một con đàn bà hư đốn được bọc trong cái lớp trẻ thơ. Có đủ cay đắng, nói nghe cho đã tai một chút, đủ “tơi bời lá thu”.

Khó có thể bắt đầu câu chuyện từ đâu, nhưng thôi hãy bắt đầu từ cái “Tôi” mạt hạng của mình cho dễ.

CÂU CHUYỆN TÔI


    N hững ngày tháng khốn khó đã qua, khi bố tôi được “thuyên chuyển công tác” về đất Sài Gòn. Ông ung dung ngồi lên chiếc ghế phó giám đốc của công ty nhập khẩu vật liệu xây dựng và kiến thiết nội thành. Mẹ tôi và tôi từ đó cũng “đổi đời theo gió”. Từ người đàn bà quê mùa như mẹ với những lao đao hằn trên mi mắt, nay trở thành bà lớn với bao điều còn lúng túng và tưởng chừng lạc giữa thế giới quyền quý xa hoa lộng lẫy giữa phố chợ ngựa xe đông đúc. Tôi cũng vậy, ngơ ngác nhìn mọi thứ dưới ánh mắt lạ lẫm. Những chuyến xe đi về, đèn vàng xanh đỏ chạy hun hút ở những con đường, những cô gái trên những chiếc xe màu sắc, nhân tình dìu nhau trên phố. Tôi đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác. Tất nhiên, điều tôi nhìn thấy ở chốn quê mùa không thể có. Chỉ có chăng là những con đường bụi đất sình lầy và những đàn trâu bò ì ạch kéo cày cho những buổi đồng áng cơ khổ. Những con đường đê chia những khu đất ruộng vuông vắn thẳng tắp đến lạ kỳ. Những cành hoa lau bạc rũ xuống bóng nước phất phơ theo gió. Tuổi thơ của tôi bắt đầu từ con đường làng thoai thoải chạy quanh co sau những khóm tre. Mẹ tôi tần tảo tháng với ngày nuôi tôi lớn. Ngày ấy ông bố tôi chỉ là người phu hồ cầm bay chạy rông… người của dân mà, ai sai đâu làm nấy hòng cho cuộc sống gia đình thêm chút “ấm no”. Thời gian tuổi thơ của tôi trôi đi êm đềm như cơn nước triều lên sông vào những buổi chiều. Bặt hẳn môït thời gian dài lặng ngắt, mẹ tôi đau vì bố tôi ra đi không để lại một lời nhắn. Với cái chất của người phụ nữ Việt Nam… chữ chung, chữ thuỷ và những sợi dây ràng buộc, mẹ tôi kiên nhẫn chờ đợi đến ngày ông trở lại đón mẹ con tôi. Sài Gòn… nơi ấy trong trí tưởng tượng của một cô con nít nhà quê như tôi đây, không tài nào hình dung ra nổi. Nơi sống mới thật lạ lùng trong con mắt và những suy nghĩ của mẹ con tôi. Dường như có điều gì đó chưa thích nghi, như cá nước ngọt lạc vào vùng nước lợ. Rồi ngày tháng nhanh chóng làm cho chúng tôi quen dần và thích nghi “triệt để”.

–Dạ thưa anh Năm… ngập ngừng vài giây, rồi nụ cười tươi hiện lên bờ môi khá móm và cong như trái ấu thiếu vành của ông ta. Ông ta nhìn bố tôi nói tiếp:–Đây là chút quà mọn của anh em trong công ty biếu anh, nhân ngày anh nhậm chức.

Tôi nhìn người đàn ông xa lạ kia thắc mắc. Đây là lần đầu tiên có người mang biếu nhà mình với thái độ trịnh trọng đến vậy. Bất giác ông ta nhìn tôi nở nụ cười, rồi nhìn bố tôi hỏi cho có lệ:

–Con gái anh Năm đó phải không ạ? Cô bé trông thông minh hết sức. Anh Năm có một gia đình đầm ấm… ước mong của bọn đàn em đây.

Bố tôi thích thú với những điều ông ta nói:

–Có gì đâu chú, mỗi người có riêng cho mình một tổ ấm, ai chả vậy.

Nói dứt câu người đàn ông lạ đẩy gói quà đến tay bố tôi và đứng lên chào ông ra về. Tất nhiên ông ta không quên bỏ lại câu nói nhắn:

–Hôm nào chị Năm rảnh, em cho bà xã và con em qua thăm chị. Vợ em gặp chị chắc là vui lắm anh ơi!

Từ hôm ấy được sự đồng ý của bố tôi, gia đình người đàn ông lạ thường xuyên lui tới như người ruột thịt. Mãi về sau này tôi mới biết qua miệng của bà Thanh Tước vợ của ông ta. Ông ta là Trúc Nhã trợ lý phó giám đốc trong công ty và là phó giám đốc trong công ty cổ phần của bố tôi. Nói chính xác thì Trúc Nhã là đàn em của bố tôi hay tay sai của ông cũng được.



NHẬN LỜI


    B uổi sáng, khi bố tôi vừa ra khỏi nhà đến công ty. Ngoài cửa có tiếng chuông điện réo lên. Tôi bật dậy từ chiếc ghế bành chạy u ra cửa. Bà Thanh Tước đã đứng đó. Bà nhìn tôi cười vui vẻ hỏi:

–Chị có ở nhà không?

Tôi lễ phép cúi chào bà và thưa:

–Mời dì vào nhà. Mẹ con đang làm bếp.

Bà theo tôi bước vào bên trong vui vẻ cất giọng gọi như chim hoạ mi gọi nắng:

–Chị Năm ơi, em Thanh Tước đây. Rồi bà tròn mắt nhìn mẹ tôi và gắt giọng nói thương hại:–Chị vất vả quá rồi. Chuyện bếp núc để cho “Osin” nó làm. Bây giờ chị không còn phải lo nghĩ như xưa. Nếu cần, em tìm cho chị một bà giúp việc.

Tôi im lặng quan sát người khách thân tình của nhà mình. Khuôn mặt trẻ hơn tuổi của bà và cơ thể đầy đặn như con gái mười tám. Thật hấp dẫn. Không hiểu sao ở cái tuổi như mẹ tôi mà bà vẫn còn son đến vậy. Đúng là người Sài Gòn có khác. Ngược lại trên khuôn mặt của mẹ tôi, những vết chân chim đã hằn lên rõ nét tố cáo một thời cơ cực lao đao ở chốn quê mùa nắng gió. Thanh Tước bước đến gần mẹ tôi hơn, bà suýùt xoa tỏ vẻ tiếc nuối và chậm rãi nói:

–Chị ơi! Em không phải nói để dạy đời đâu, nhưng em cảm thấy thương chị quá. Đàn bà với nhau và nhất ở địa vị của mình, chị phải “trùng tu” nhan sắc mình chứ. Không thì các quan bỏ mình mà đi. Chị coi em nè!

Mẹ tôi ngẩn người ra nhìn Thanh Tước ú ớ vì câu nói của bà quá bất ngờ. Bất ngờø đến nỗi mẹ tôi không biết phải làm sao? Có lẽ bà cũng chưa quen với việc “trùng tu” nhan sắc và cũng chưa nghe bao giờ. Rồi trong thoáng chốc, Thanh Tước đưa tay lên mặt mẹ tôi vuốt nhẹ, nhăn mặt nói chua chát:

–Trời ơi, chị coi nè… có thảm không chứ. Những vết nhăn chày ngày tháng mà chị để yên chúng dầy xéo lên trên khuôn mặt đầy chất lãng mạn như chị được sao?

Mẹ tôi im lặng nhìn Thanh Tước, hỏi với chút đượm buồn và cay đắng:

–Vậy tôi phải làm sao cho hết. Tuổi già đành vậy thôi chứ sao cô. Tôi nhỏ lớn giờ chỉ biết cây cuốc cái cày, đâu có hạnh phúc như các cô Sài Gòn.

Thanh Tước nhìn mẹ tôi ngượng ngùng, nhưng rồi ả cũng nói để mẹ tôi vui:

–Chị nói vậy tội nghiệp em, ngày trước em cũng đâu được như giờ. Nhờ có tí tiền, sửa chút nhan sắc mới dễ nhìn như hôm nay. Em muốn đề nghị chị thay đổi một chút thôi mà. Cứ coi như mình thay đổi xiêm áo cho vui. Có hại đến ai đâu nè. Chỉ cho mình đẹp ra thôi, không các quan lại chê cơm nhà thích phở Lolita thì chị em mình chổng vó.

Tôi và mẹ tôi không biết lúc ấy bà Thanh Tước nói gì. Riêng mẹ tôi ngần ngừ mãi và rồi bà quay lại thắc mắc hỏi:

–Phở Lolita là gì?

Bà Thanh Tước cười lớn nước mắt trào ra trong sự ngạc nhiên tột độ của chúng tôi. Bà nói sau tràng cười nắc nẻ:

–Bà chị ơi, vậy mà không hiểu thì làm sao không bị các quan gạt chứ. Phở Lolita là cái đám con gái phấn son tơi bời trong mấy tiệm nhẩy và mấy quán bia ôm đó. Bà chị thiệt tình không biết hay là cố ý không biết đây? Tụi nhóc này hay lắm chị… có quan bị nó móc hết hầu bao rồi mà vẫn chưa biết. Nó có nhiều chiêu thức và các miếng võ ghê gớm lắm. Lão Trúc Nhã nhà em cũng có lần vướng vô, nhưng em quậy tưng bừng, nên lão đành phải xếp vó ngựa đó thôi. Mấy quan không tin nổi đâu chị ơi! Chị đừng khờ như vậy.

Khuôn mặt nhà quê đầy nắng gió của mẹ tôi, bỗng chốc đỏ bừng lên vì giận, vì ngạc nhiên. Bà ấp úng nói không thành tiếng. Đó là những gì tôi nghe được lần đầu tiên trong cái thế giới hoàn toàn xa lạ với mình. Rất lâu mẹ tôi như tỉnh lại, bà nói:

–Có thật vậy không cô? Hay cô chỉ nói chơi thôi. Nhưng nếu đúng như lời cô nói thì mình cũng phải nghĩ cho thân mình chứ. Tội vạ gì không làm đẹp cho mình. Đó là để bảo vệ hạnh phúc thì cũng nên làm lắm chứ.

Thanh Tước tròn mắt nhìn mẹ tôi hăm hở. Bà nói vồn vã như sợ người khác cướp lời:

–Còn gì phải nghĩ nữa. Em sẽ đưa chị đi… chuyện tiền nong không đáng là bao chị khỏi lo cho mệt. Phải chỉnh sửa thôi. Mất chồng em không sợ, chỉ sợ các quan mang về cho mình một đại lý “sầu riêng” là chết dở.

–Cô nói nghe lạ quáù tôi không thể hiểu nổi. Nhà tôi trên quê cũng lắm sầu riêng… có chết chóc ma tây nào đâu.

–Chị lại không hiểu rồi. Ýù em nói ở đây là virus bịnh sida đó bà chị. Chị nhìn thấy mấy tấm biển vẽ cây kim để bài trừ ma tuý không. Bên cạnh có một đống tròn tròn có gai đó là HIV đó. Để các ông đi bậy vấp phải cái trái đó là coi như đời mình cũng toi luôn. Trong xóm em có con mẹ có chồng ăn nên làm ra, hách lắm, nhưng sau này té ngửa ra thằng chả mắc bệnh. Tất nhiên thì mụ ta cũng không tài nào né được cái búa của thần chết rồi. Còn về phần chị em mình đã có phần được phước rồi thì phải biết mà giữ gìn. Vả lại chị em mình đã mắc cạn vào đời các quan rồi thì phải cố chống chèo cho qua.

Song bà quay lại nhìn tôi và nheo mắt như kéo tôi về phía bà, nhằm làm thành một khối liên minh vững chắc để thuyết phục mẹ tôi: –Con thấy không, dì nói đến vậy mà mẹ con vẫn chưa chịu đó. Bà chị khó tính quá.

Thật tình lúc ấy tôi không hiểu gì. Mãi về sau này, tôi mới biết bà làm như vậy hòng mong lấy lòng mẹ tôi, cho việc thăng tiến của chồng bà. Dù sao lệnh quan bà bao giờ cũng nặng ký hơn và dễ nói hơn khi đã lỡ “ngậm ngọc”. Chiêu “mở miệng mắc quai”, tuyệt chiêu, từ ngàn xưa đến bây giờ chưa có một quan bà nào vượt qua được ải đó. Tất nhiên mẹ tôi xiêu lòng và làm theo sự sắp xếp của Thanh Tước.

Mẹ tôi ngồi rất lâu, lắng nghe Thanh Tước giảng giải như một chuyên gia sắc đẹp, một nhà hùng biện. Điều đó với bà rất lạ. Bà như lạc vào mê cung bí sử nào đó xa xôi. Thanh Tước cứ thao thao bất tuyệt về những bàn tay vàng có thể biến quỷ dạ xoa thành tiên nữ. Bà diễn tả bằng tất cả tâm huyết, bằng tất cả sự thành thật và cả những tráo trở trơ trẽn đến buồn cười, nhằm phá sập bức tường đá trong lòng mẹ tôi. Và cuối cùng bằng những cố gắng của mình, sự thành công đã mỉm cười với ả. Câu chuyện của mẹ tôi và bà Thanh Tước kéo dài rất lâu, qua những khúc quanh… đến những nơi đồng nội, vượt qua những chặng đường gió bụi và đến điểm. Chúng tôi bước ra khỏi nhà trong sự hoan hỷ của Thanh Tước và nỗi ngập ngừng của gái quê già.


Trong tập truyện Nhật Vựng




NGÔI TRƯỜNG TRONG TRÍ NHỚ tản văn ANNA










NGÔI TRƯỜNG TRONG TRÍ NHỚ




“Phựơng nở hè sang cách biệt rồi
Ve sầu vang khúc nhạc chia phôi,
Không gian đứng lặng nhìn trong nắng
Buồn bả lòng ai nghe lệ rơi.”


    B ạn ơi! Hãy nhìn dòng sông cuốn chảy cả tình ta đến biển xanh. Dưới mái trường màu hoa phựong nỡ đỏ rực của những buổi chiều tan học, màu áo dài trắng thướt tha trong gió của những cô học trò dịu dàng trong ánh nắng của mùa hè. Rồi mai này mỗi người đi về một nơi những dòng chữ còn in đậm đà của mùi hương thấm đựơm của lòng ai.

Không biết tôi vô tình hay cố ý đã để lại những ký ức vui buồn lẫn lộn trong mái trường Đức Phổ II này. Thời gian đã trôi qua đến nay cũng ba năm rồi, mà có lúc tôi ngồi nhớ lại. Nhớ bạn bè, nhớ mái trường xưa, nhớ Thầy Nguyễn Ngọc Huy, tôi còn hình dung ra cái dáng của Thầy khi bước vào lớp như thế nào, khi cầm cục phấn với những nét chữ in nghiêng làm cho những cô học trò phải lóe mắt nhìn theo. Có những khi buổi cuối tuần hợp lớp thầy nóng giận với những học trò lười. Đó là một thời học sinh ai cũng phải trải qua những giây phút hồi hộp và những niềm vui bất tử, cũng là một chút để thêm sao động cuộc sống với muôn màu sắc tím. Hay những trái tim học trò đang thổn thức reo vang của buổi hoàng hôn thơ mộng ấy.

Đời học sinh như những vần thơ, hay chỉ là một thời hoa đẹp, hay chỉ là nhữgn nét mực xanh, hay chỉ là những khúc nhạc buồn. Với lòng đầy bâng khuâng và đầy lưu luyến, tôi còn nhớ có những chiều đi học mưa rơi ướt cả sân trường và ướt cả con đường tôi đi, lòng đầy vấn vương trong tà áo trắng, Tôi vừa đi vừa cầu xin, mưa ơi xin đừng rơi nữa, mưa ước cả tập rồi nhạt nhòa những ước mơ, tôi sợ khi thầy giò bày thấy nhữgn dòng chữ đầy lấm lem màu mực tím.

Cảm giác này sao tôi nhớ quá đi “ nhớ nhớ thương thương vấn vương mọi đều”, nhớ những con đường nho nhỏ, nhớ tà áo ai bay bay, nhớ những chiều dạo phố dưới hang cây, nhớ mùi hoa sữa đi tìm khung trời mới, nhớ con đường hằng ngày tôi vẫn đợi, nhớ tiếng chân quen bước vội ở bên đường.

Dòng thời gian miên man trôi, rồi hôm nay tôi ngồi trên cái bàn làm việc mà thời học trò tôi vẫn thường mơ ước tìm đến một tương lai này. Tôi xin cảm ơn với những gì mái trường đã cho tôi, đã gửi cho tôi một dấu ấn sâu sắc, một màu xanh đầy hy vọng. Những ký ức đó sẽ trở thành những vần thơ hay những câu ca dao tục ngữ, hay những khúc nhạc đi vào lòng người của một thời học sinh. Và có thể nói đó là “mái trường trong trí nhớ” của tôi.






mardi 28 juillet 2020

MỘT THOÁNG HÈ VUI tùy bút TIỂU NGUYỆT







MỘT THOÁNG HÈ VUI




    N ắng tháng năm oi bức, ngột ngạt vô cùng, luôn thôi thúc mình ước mơ được ngâm mình trong làn nước trong xanh của vùng biển quê nhà. Ước mơ và hy vọng là hai động lực làm trỗi dậy và xanh biếc đời sống! Mình thường thầm nghĩ, một đời sống mà thiếu vắng ước mơ (và hy vọng), thì có còn ý nghĩa là đời sống nữa không?

Thế là nhớ, là mong, là ước mơ được trở về. Về với bạn bè cùng nhau giỡn sóng, cùng nhau rong chơi. Được nắm tay nhau đi dạo thăm nơi nầy chốn nọ, dù trời có nắng nóng cỡ nào cũng thấy vui, thấy thích. Thế rồi mình tự “lên lịch” cho ngày hè với bao háo hức.

Mình sẽ tung tăng cùng nhỏ bạn dọc theo bờ rào bên đường quê để hái múi giẻ, chiêm chiêm. Hai đứa đi trong bóng mát được ấp ủ bởi lũy tre xanh ngát, vừa nói đủ thứ chuyện - chuyện cũ, chuyện mới, chuyện vui, chuyện buồn; vừa cười giỡn thỏa thích như thời tiểu học. Mình sẽ nói cho nhỏ nghe những vui buồn cứ lẫn lộn đan xen trong cái đầu bé xíu của mình; đôi khi thật mâu thuẫn - khiến mình cũng không chịu nổi. Có lúc mình nghĩ: “Ừ! Thôi kệ hắn đi! Hắn muốn làm gì thì làm”, nhưng rồi nghĩ lại thấy tưng tức làm sao ấy; rồi mình ghét, mình hận, rồi mình thấy tội nghiệp hắn, tội nghiệp mình. Vậy có “rắc rối” không kia chứ? Rất nhiều khi, tự nhiên mình cảm thấy thương thân mình ghê, không biết chăm sóc chút nào, không biết trau chuốt chút nào; cứ lo nghĩ cho người ta, mà người ta có nghĩ gì đến mình cho cam. Thế là dần dần mình quyết định gạt bỏ hết tất cả những “rắc rối” để chỉ nghĩ đến mình, miễn sao mình vui, mình khỏe là được.

Dường như có lần mình đươc nghe vị thầy ở chùa Phi Lai dạy rằng: “Phải biết yêu thương mình, sau đó mơí yêu thương người”.Nhưng rồi lạ thiệt, mình cứ dõi theo hắn, xem hắn ra làm sao, đèn nhà hắn có xanh màu không? Mình ngu quá phải không? Đèn xanh hay đỏ thì mặc kệ người ta, hơi đâu mà quan tâm cho khổ cái thân. Ừ! Thôi, mình sẽ không nghĩ đến hắn nữa, sẽ “bứng” hắn ra khỏỉ cái đầu bướng bỉnh nầy; mình sẽ nói chuyện thật hồn nhiên, vui sống như ngày xưa cho vui. Bây giờ, hãy biết sống và quý những giây phút hiện tại, dành trọn cho niềm vui hôm nay.

Nghĩ lại, hồi còn đi học mình hiền quá, không “dữ” như bây giờ đâu; ai nói gì mình cũng tin, dù bạn bè trêu chọc mình tưởng thiệt cứ “Thế à?, thế à?” làm tụi nó bụm miệng cười không chịu được; nhưng bù vào, đứa nào cũng “thích” mình hết. Một hôm có giờ nghỉ vì thầy bị bệnh, cả bọn không về nhà mà dắt nhau đi lên tít trên Phước Mỹ chơi; mỗi lần nhớ đến chuyện này là mình cười chảy nước mắt. Bạn Lưu Thạch rủ tụi mình về nhà bạn ấy ăn mía. Vừa bước vào nhà là tụi mình vào chào ba má Thạch. Ba má Thạch rất vui, cười nói với đám con gái tụi mình “các cháu ra vườn hái mấy trái dưa leo vào ăn bánh tráng”. Tụi mình chuẩn bị ra vườn thì Phong bước vào chào ba má Thạch lễ phép lắm “Con chào hai bác! Con là thầy giáo hướng dẫn em Thạch, hôm nay được em Thạch mời về chơi nhà mình đấy ạ!”. Trời đất ơi! Mình nín thở không bước nổi khi nghe Phong nói thế. Phong thấy tụi mình đứng tần ngần ở đó liền nói “Các em đi ra vườn chơi đi, để thầy nói chuyện với hai bác”. Mình vừa sợ, vừa lo, nhưng nhìn cái mặt Lưu Thạch là mình không nhịn được cười, nó làm sao ấy. Lưu Thạch lỡ khóc, lỡ cười, đành ngậm bồ hòn nín thinh chỉ líu ríu làm theo những gì Phong sai bảo. Bọn con gái tụi mình ra vườn cùng nhau ôm bụng cười vì cái mặt của Lưu Thạch khi ấy, trông méo xẹo, ngờ nghệch không nhịn cười được. Tội ba má Lưu Thạch ghê! Hai bác ấy mừng vì có thầy hướng dẫn con mình ưu ái về nhà thăm, hai bác vui vẻ tiếp “ông thầy tự phong” ấy thật nhiệt tình. Nói chuyện một hồi, má Thạch nói: “Thạch ơi! Con ra sau nhà bắt con gà mái làm thịt đãi cơm thầy và các bạn nhen con!”. Tụi mình nhìn nhau e ngại “Chết rồi! Ông Phong giỡn kiểu này hai bác biết được là chết, mình sợ lắm”, nhưng cũng bấm bụng để không cười thành tiếng. Lưu Thạch dạ nhưng đưa mắt “lườm” Phong như nhắc chừng bạn ấy “vừa phải thôi nhen mầy”.

Trong mâm cơm trưa hôm ấy thật vui, cả nhà cười nói râm ran đủ thứ chuyện. Ăn cơm xong một lát ba má Thạch nói “Tụi con về đi, ở đây mất an ninh không ở tối được”. Thế là tụi mình chào ba má Thạch ra về với lời cảm ơn hai bác về bữa cơm vui vẻ. Như lời hứa, Thạch dắt cả bọn ra đám mía nhà bạn ấy. Vừa dựng chiếc xe, Lưu Thạch nhào vô Phong đấm túi bụi vào lưng bạn mắng “Thầy nè! Đánh cho chết ông thầy tự phong này cho chừa cái thói quỉ sứ của ông nè!”. Cả bọn cười một bữa no nê, Phong cười ngã xuống đất, bò quanh mọi người. Thế rồi cả bọn ngồi xiết mía, mặt mày đứa nào đứa nấy phấn mía bám đầy nhìn nhau cười chảy nước mắt.

Hình ảnh ngôi trường thân yêu mà mình hay gọi là ngôi “Trường Nắng”(*) luôn thấp thoáng trong cái đầu ngu ngơ của mình. Gọi là ngôi Trường Nắng bởi vì ngôi trường ấy được xây trên một bãi cát nắng cháy bỏng, chỉ có hai dãy phòng mà thôi. Rồi thầy trò chúng mình trồng những hàng phượng, những cây bàng trước sân trường để có bóng mát vui chơi. Ngày tụi mình rời trường, phượng đã nở hoa đỏ rực. Ngày ấy, mình hay hái những cánh phượng ép vào trang vở rồi tập làm thơ; cũng cắn bút suy tư, làm thơ về trường, về lớp. Lòng bâng khuâng khi ngắm xác phượng rơi, tiếng ve ngân, rồi mơ rồi mộng. Mình nghĩ rồi, hè này tụi mình sẽ ghé thăm ngôi trường thân yêu ấy, để ngắm nhìn, để gợi nhớ những kỷ niệm một thời cắp sách. Tụi mình sẽ vui, sẽ cười, sẽ giỡn như xưa, để sống lại tuổi hồn nhiên mới lớn. Ngôi trường ấy dù giờ đây đã không còn nắng nóng, nhưng trong lòng mình luôn là ngôi “Trường nắng” thân yêu đầy ắp kỷ niệm. Rồi tụi mình sẽ cùng nhau đến thăm quí thầy cô, thể hiện lòng yêu kính với những người đã từng dạy dỗ, dìu dắt mình. Ôi! Một ngày về đầy niềm vui và thi vị. Thế rồi, dù nhắm mắt mình cũng thấy rõ hình ảnh quí thầy cô, các bạn trong những lần họp mặt thường kỳ vào Trung Thu hằng năm, nhớ vô cùng.

“Nhớ lại, một lần về họp mặt Thầy và Trò của trường mình. Cả đêm hôm trước không thể nào mình chợp mắt được, hết đi lên rồi đi xuống; lòng nôn nao, háo hức với bao điều về thầy, về bạn. Hôm ấy nhỏ Hoa chạy ra bến xe đón mình, nó phỉnh mình đủ thứ; nào là thầy cô về hết rồi, bạn bè không còn ai, đã làm mình buồn chết được, nước mắt muốn chảy rồi đấy. Thế nhưng, khi mình đến nơi thầy cô và các bạn còn đủ cả, chưa ai ra về vì biết mình sẽ có mặt nên chờ. Mình nghe ấm áp vô cùng, xúc động đến nghẹn lòng, phải một lát mới bình thường lại được. Thế rồi mình vui lắm, cười thả ga luôn. Mọi người mừng rỡ khi thấy mình xuất hiện, ai cũng thân tình với những lời hỏi thăm; tuy đơn sơ, nhưng mình cảm thấy ấm áp, chưa bao giờ mình được vui như thế. Thế rồi mình đắm chìm trong niềm vui hồn nhiên, sống lại thời mười lăm mười sáu. Mình sà vào bàn này đến bàn khác, gặp lại từng bạn trong niềm vui và hạnh phúc, và nghĩ rằng - biết đâu ngày mai mình có còn gặp lại nhau được nữa hay không? Rồi cùng hát ca, cùng đùa giỡn, cùng nhảy nhót với các bạn. Lại thêm một kỳ gặp gỡ, họp mặt hạnh phúc nữa được ghi vào trang nhật ký của cuộc đời.”

A! chương trình tiếp đến cho ngày hè của tụi mình sẽ ra sao nhỉ? Này nhé! Sau khi thăm trường lớp, thăm quí thầy cô; tụi mình sẽ cùng nhau đi biển. Biển quê hương trong xanh với tiếng sóng rì rào vẫn muôn đời bất tận, tụi mình sẽ tắm biển, cùng nhào lộn trên sóng, cùng xây những lâu đài trên cát; rồi cùng ôm giữ căn nhà vừa xây xong khi có con sóng vỗ bờ. Mình sẽ cùng nhau bắt còng, bỏ chúng dồn vào cái lon; rồi thả chúng ra, một, hai, ba chúng mình cùng chạy đua với chúng. Mình nằm dài trên bãi cát mịn màng chờ những con sóng vỗ vào phủ lên người, rồi cố bịn không cho chúng kéo mình ra biển, thử ai mạnh hơn. Thế rồi, mình sẽ đi bộ trên biển, vừa đi vừa hát với những ca khúc về biển thân yêu. Mình đi mãi, đi mãi miên man nhớ về bãi biển Đại Lãnh năm nào. Ngày ấy, mình cùng Hồng, Thu Cúc, Miên, Khảnh rủ nhau leo lên xe lửa vào Đại lãnh. Năm đứa mặc áo dài như đi học, nghe người ta nói biển Đại Lãnh rất đẹp; thế là rủ nhau cùng đi dù chưa đứa nào trong năm đứa biết trước Đại lãnh nằm ở đâu. Kỷ niệm ấy vui, buồn lẫn lộn làm sao mà không nhớ chứ. Năm đứa xuống biển Đại Lãnh, tay ôm cặp, tay xách dép, cứ chân trần bước trên sóng đi mãi đến cuối bãi toàn dương là dương với loài hoa Muống Biển nở tím biếc. Hái hoa, giỡn sóng chơi cho đã quên cả thời gian; đến khi lên ga thì tàu đã chay ra rồi. Thu Cúc khóc làm mình cũng khóc theo, bị Khánh la “Gì mà khóc, tụi mình ra đường đón xe Thuận Thành về chứ gì mà om sòm, toàn tiểu thư không hà”. Nghe Thu Cúc nói nhỏ Miên bỗng ré lên “Tiểu thư không hà! Chiều nay không về được tối xuống biển ngủ cho mấy ổng xuống rinh bà đi trước à”. – ai rinh? – cọp! Thế là cả bọn nhảy cẫng hét toáng lên sợ hãi. Hồng nãy giờ nín thinh, liền lên tiếng “Mấy bà theo tui, xuống đường đón xe”. May quá vừa ra đường là có chiếc xe Thuận Thành vừa từ Nha Trang chạy ra, cả bọn đón lại, lên xe, mừng hết lớn!

Không biết giờ này Hồng làm gì ở đất Sài Gòn? Hè này có về quê không? Thu Cúc đã theo gia đình qua bên kia bờ đại dương xa xăm biết chừng nào gặp lại? Còn Miên, đã ra đi về miền miên viễn mấy năm rồi; nghĩ đến sao mà cay sè đôi mắt. Thôi thì, còn được đứa nào hay đứa nấy, vui cho thỏa thích để rồi biết ngày mai ra sao?

Kế đến, tụi mình sẽ cùng đi cà phê, hẹn nhau quán cà phê nào đó vào một buổi sáng; cùng nhau chuyện trò, nhắc lại những ngày vui cũ, những kỷ niệm năm xưa; cùng nhau tám đủ thứ, cho thỏa lòng mong nhớ. Ôi! Những kỷ niệm buồn, vui, kể làm sao cho hết; nhưng mà mình cũng sẽ gắng nhớ, kể hết, để chúng mình cùng cười, cùng nhớ.

“Nhớ ngày lễ Phật Đản năm bảy mươi ba, cả trường mình cùng ra dự lễ ngoài chùa Bảo Tịnh. Các nơi về tụ tập thật đông trước sân chùa nghe các thầy nói chuyện. Nắng và nóng làm đứa nào cũng mệt, bên tai mình có tiếng thủ thỉ “Bà đi ăn dưa hấu không?”. Mình thích quá, nắng này mà đi ăn dưa còn gì bằng; thế là mình hưởng ứng ngay - ở đâu? – Màng Màng. Mình gật đầu liền, thế là từng đứa một cúi đầu thiệt thấp chạy ra ngoài. Mình thấy thầy giám thị cầm cái roi đi quanh chỗ mình ngồi, chờ thầy qua khỏi mình cúi đầu lủi chạy theo các bạn. Thế là mình thoát, vừa ra khỏi mình chạy sang bên kia đường đã thấy Đào, Minh Đức, chị Khiết, Ngô thị Thu đã đứng sẵn. Mình ùa vào cùng các bạn chuẩn bị đi thì nghe tiếng “Mấy chị đi đâu cho tụi em theo với”; ngoảnh lại thấy nhỏ Liễu dắt theo hai bạn lớp nó chạy theo. Trời ơi trời, mình sợ hết hồn; đi cái kiểu này thầy giám thị mà bắt được là chết cả bọn, mình nói “mấy chị có đi đâu, tụi em vô đi kẻo thầy bắt được là chết đó”; vậy mà tụi nó năn nỉ mãi, cuối cùng cho tụi nó nhập bọn luôn.

Tám đứa leo lên xe lam thẳng tiến phía bắc. Màng Màng! Nghe cái tên mơ màng làm sao, mình nghĩ chắc nơi ấy thơ mộng lắm; nhưng nghe Đào nói nắng cháy da, chỉ ăn dưa là mát thôi. Mình háo hức lắm, từ nhỏ giờ có được đi đâu; hết đi học rồi về nhà, rồi ẵm em làm gì được đi nơi nào. Lên xe tám đứa giỡn như quỉ, người ta nói “Nhất quỉ, nhì ma, thứ ba học trò” mình chẳng hiểu, nhưng đến lúc đó mình mới hiểu. Cả bọn hát hò a li hò lờ làm bác tài cũng vui lây. Nhỏ Đào học ở đâu ra một câu mà nó cho là hay nghêu ngao làm cả bọn cười muốn vỡ bụng. Đào đọc kéo dài lê thê từng chữ “Yêu làm gì cho nhọc tâm, phung phí thì giờ những chuyện vu vơ, tuổi chúng ta là tuổi mộng mơ, mà đường đời là chông gai cạm bẩy”. Vui làm sao! Cười chảy nước mắt.

Xuống xe, tám đứa chạy ào vào ruộng dưa, đống to, đống nhỏ, những trái dưa tròn lẳng, bóng mượt thích ơi là thích. Sà vào lựa ra một mớ, trả tiền rồi cả tám đứa quây quanh lại. Làm sao ăn đây trời? Lấy gì mà chẻ ra? Đào lại bày “Tui nghe tụi nó nói, lấy tay chặt mạnh vào dưa bể ra tha hồ cạp”, cái gì cũng Đào bày hết; nhỏ ấy vậy mà giỏi, chỗ nào cũng biết, cũng hay. Thế là tám đứa chẻ dưa theo kiểu của Đào vừa nói, cạp lấy, cạp để. Miệng mồm đứa nào đứa nấy ngồm ngoàm, chảy nước dưa ướt mặt, ướt áo; vừa ăn vừa giỡn vui dễ sợ.

Ăn xong, tám đứa ra quốc lộ chuẩn bị đón xe lam về. Bấy giờ Đào nói với Liễu và bạn nó: “Nãy giờ mấy chị trả tiền xe ra và tiền dưa, giờ tới bọn em trả tiền bận xe về à nhen. Mấy chị hết tiền rồi”. Nhỏ Liễu ngơ ngác “Tụi em làm gì có tiền mà trả, mấy chị trả luôn đi bữa nào tụi em tính lại”. Mình thấy lo trong ruột, tiền đâu mà trả cho tụi nó nữa đây. Kỳ này không có tiền về xe, đi bộ chắc nửa đêm mới tới nhà, ăn đòn là cái chắc. Đứa nào cũng lo hết, Đào là đầu tàu, nó rủ, cái gì cũng nó cả. Đào la “Tụi em không có tiền mà đi theo, mấy chị biết làm sao”. Nhỏ Liễu nói “Mấy chị sao, tụi em vậy. Đi bộ thì cùng đi chứ sao”. Cả tám đứa nhìn nhau, ngó lên trời; rồi cũng Đào lo chớ ai vô đây nữa. Đào nói “Thôi được rồi, hồi sáng chị Hồng nhờ tui lấy tiền may cho chĩ, tui chưa đưa; giờ tui trả, về nhà góp lại cho tui đưa chị Hồng, không có là chết à nhen”. Thế là lên xe, ăn no nê không hò hát gì nổi nữa; đứa nào cũng mong mau về tới nhà kẻo trời tối”. A! Cà phê sáng xong, mình cùng kéo về nhà một bạn nào đó rồi ra chợ mua thứ gì về nấu cơm ăn - bữa cơm sum họp ấm cúng biết bao. Như vậy mình mới có dịp được gần nhau, sống bên nhau, bởi với lứa tuổi mình bây giờ, biết ngày mai ra sao mà hờ hững, chờ đợi.

Với dự đinh và mơ ước như thế, nhưng mình đã như nghe thấy tiếng sóng quê nhà đang réo gọi; mình nôn nao, mình háo hức; mong sớm đến ngày được trở về sống lại những ngày hè - dù ngắn ngủi, thoáng qua, nhưng âm vang và sắc mầu kỷ niệm luôn sống mãi trong ký ức cuộc đời lận đận của mình.. Mình chợt nhớ lại bài thơ “Mùa Hè Giã Biệt” của Thầy Trần Huiền Ân đã đọc cho lớp nghe vào buổi học cuối buồn hiu hắt năm ấy - Thầy còn kể cho biết, đây là bài thơ đầu tiên của Thầy được đăng báo (Tuần báo Văn Nghệ Tiền Phong, năm 1958) – cũng chính là năm mình đươc sinh ra!. Mình dã không giữ đươc những giọt nước mắt khi nghe Thầy đọc đến hai đoạn cuối:

“(…) Chỉ còn một bữa nữa mà thôi
Mai cửa trường im khép lại rồi
Tàu đến sân ga, tàu chuyển bánh
Mang người ly cách đến ngàn nơi
Thôi nhé, dù sao mình vẫn hẹn

Một ngày hội ngộ ở tương lai
Hè buồn, hè vắng, hè nhung nhớ
Không cản tình ta đến trọn đời”

“Thôi nhé dầu sao mình vẫn hẹn/một ngày hội ngội ở tương lai” các bạn nhỉ?

(*) Trường Trung Học Bồ Đề Hiếu Xương
05/2017   



TIẾNG KÈN LÁ TRÊN ĐỈNH MÃ PÌ LÈNG truyện ngắn VŨ XUÂN TỬU









TIẾNG KÈN LÁ TRÊN ĐỈNH MÃ PÌ LÈNG



    T rong mỏm đá, tán cây mà leo lên. Trời nóng như đốt nương, vượt dốc, cổ họng khô rát, tưởng như mồ hôi đã cạn kiệt không thể chảy ra được nữa, thì bất chợt gặp một dòng nước từ trên núi chảy xuống, tràn qua cả mặt đường đá. Tôi hồ hởi phanh ngực áo, bỏ ca-táp, cởi dép rọ, đứng một lúc cho mát dịu lại, rồi mới thong thả rửa tay, rửa chân, xúc miệng ba lần, uống một ngụm, xong rồi mới lau mình, gội đầu... Các anh đã công tác ở vùng cao lâu năm, truyền cho tôi một kinh nghiệm là chớ có vồ vập thái quá, phải biết điềm nhiên. Người miền núi ai cũng thâm trầm, điềm đạm. Vả lại, đang nắng nóng mà lao xuống nước là dễ bị cảm nhập tâm như chơi.

Bản trên đỉnh núi, đi theo đường ngựa thì đỡ dốc, nhưng không biết bao giờ mới lên đến nơi. Thế là sẵn có dây thép to như ngón tay, lõng thõng bên vách núi, tôi liền đu người leo lên. Đây là những sợi dây an toàn của công nhân mở đường qua Mã Pì Lèng, qua mấy chục năm rồi, mà đến nay vẫn còn quấn chặt trên vách ta-luy dương.

Vừa leo tắt lên lưng chừng núi, tôi sững sờ khi nhìn thấy một cô gái người Mông Trắng, đẹp như tiên sa, đang lom khom đứng giặt giũ bên khe nước. Cô gái cũng giật mình hoảng sợ, khi đột nhiên nhìn thấy tôi như từ khe đá chui ra. Tôi định thần, vội nở nụ cười cầu thân:

- Giặt à?

Cô gái không nói gì, lại lặng lẽ giặt giũ. Tôi bèn ngồi nghỉ bên gốc cây cổ thụ cạnh khe nước. Bàn tay rộp máu và đầy gỉ sắt. Tôi thò tay xuống nước, xót ứa nước mắt, rồi thõng hai bàn tay trên đầu gối cho khô và lơ đãng ngắm nhìn mây trời đang từ đỉnh Mã Pì Lèng, bay sang bên kia biên giới. Cô gái Mông thì vẫn loay hoay với cái chậu gỗ tròn, đựng đầy nước tro bếp, ngâm cái váy vải lanh trắng rộng cỡ mười hai vuông. Trong cái quẩy tấu cạnh đó, còn vắt ngổn ngang mấy bộ quần áo tà pủ. Thôi chết, không khéo ban nãy mình gội đầu, rửa mặt và uống dòng nước này. Thảo nào... Tôi oẹ khan một cái. Cô gái giật mình quay lại, nhìn tôi trân trân. Tôi ngượng ngùng vội đứng dậy, lặng lẽ lên núi.

♣♣

Tôi dạy lớp ghép. Lớp của tôi có hơn chục đứa trẻ. Chúng học rải rác ở tất cả các lớp của cấp một, nhưng ngồi chung một phòng học, gồm có sáu bộ bàn ghế. Đứa bé nào đến tuổi đi học thì được miễn học phí, được cấp sách vở, bút mực. Đứa nào bỏ học thì bị phạt. Con trai bỏ học bị phạt bảy quẩy tấu ngô, con gái bỏ học bị phạt chín quẩy tấu ngô.

Buổi sáng, khi sương tan là tôi lên lớp. Một cái bảng đen nứt nẻ, tôi dùng phấn trắng thạch cao kẻ bốn cột cho bốn lớp. Trên góc bảng, tôi cũng ghi đủ số học sinh có mặt và vắng mặt. Số học sinh vắng mặt đầu giờ là phổ biến. Bởi vì,  vào lúc sớm tinh sương, những đứa trẻ lớn phải đi cắt cỏ bò và cỏ ngựa. Khi về lớp thì quần áo, đầu tóc của chúng còn ướt sương mai, dính đầy hoa cỏ và bùn đất. Cả lớp ghép chỉ có một lớp trưởng là thằng Páo, con của trưởng bản Mí Tủa. Làm quan có nòi, làm cán bộ cũng thế.

Lớp ghép có cái dở nhưng cũng có cái hay: dở, nghĩa là chỉ một thày mà cùng một lúc, phải truyền thụ kiến thức của nhân loại cho ngần ấy thứ bậc trình độ, thì làm sao mà cụ thể và sâu sắc được; nhưng hay là ở chỗ, chúng có điều kiện ôn bài lớp dưới và đi trước thời đại khi nghe bài lớp trên. Bọn trẻ thông minh và luôn ghi nhớ hình phạt khi bỏ học. Có lần, tôi ra bài tập toán cho thằng Páo lớp trưởng: ông Mí Tủa đi nương, mang về sáu quẩy tấu ngô. Chị Mỷ (cô gái giặt bên khe nước mà tôi đã gặp) cũng đi nương và mang về ba quẩy tấu ngô nữa. Hỏi nhà Páo có mấy quẩy tấu ngô? Trong khi thằng Páo còn đang loay hoay tính toán, thì con bé lớp dưới đã nhanh nhảu đứng dậy, trả lời: "Bằng cái ngô phạt đứa gái bỏ học". Cả lớp cười ầm lên. Tôi ngớ người.

 

Buổi tối, bên bếp lửa, ông Mí Tủa thường dạy tôi những bài hát cúng ma. Bà Mí Tủa thường dạy tôi những bài hát đám cưới. Củi thông cháy thơm thơm. Củi tống quá nổ lép bép. Rượu ngô nồng nàn thấm vào tận gan ruột, càng làm tôi hát say sưa. Mỷ và Páo cũng học theo những câu hát của bố mẹ. Có khi, hai hòn than nóng bỏng từ đôi mắt Mỷ bắn sang, khiến tôi lâng lâng. Đến khi ánh lửa từ đôi mắt tôi chiếu lại thì Mỷ lại đỏ mặt quay đi.

Tôi thường theo thằng Páo vào rừng bắt chim hoạ mi. Nó khéo tay, đan được những cái lồng trúc rất đẹp. Nó cũng lanh lợi và táo bạo, nên bắt được những con hoạ mi hót hay nhất vùng Mã Pì Lèng. Có hôm, tôi theo nó đi cắt cỏ ngựa. Nó dạy tôi ngắt lá thổi kèn. Thày chiêm tinh bảo tôi thuộc cung bảo bình (verseau), nên những gì thuộc về văn học, nghệ thuật và khoa học, kỹ thuật là tôi tiếp thu rất nhanh, nhất là cái khoản thổi kèn lá, để nhằm vào việc tỏ tình bằng dân ca Mông.

Một hôm chủ nhật, tôi lên phòng giáo dục trở về, qua gốc sa mu cổ thụ, nhác thấy bóng Mỷ đang cắt cỏ ngựa, thấp thoáng ven rừng. Tôi bèn ngắt lá đưa lên môi thổi tí te. Mỷ ngẩng lên nhìn thấy tôi, mặt đỏ bừng, rồi lại cắm cúi cắt cỏ. Tôi được đà thổi vóng lên:

     "Em ơi!
           Tình yêu đôi ta đẹp thế này
 ... "(1)

Bỗng Mỷ buông liềm, ôm tay. Tôi vội chạy lên, nín thở ngắt cái lá sau lưng, nhai giập ra đắp vào vết thương, rồi lại ngắt lá cỏ tranh, tước hai bên cạnh sắc và quấn ngón tay cho Mỷ, nom hệt như một dải băng xanh xanh. Mỷ toan ôm bó cỏ để về. Tôi vội  giằng lấy, lui cui đội đi. Mỷ cun cút bước theo sau. Chợt có tiếng trẻ con ngọng nghịu trong bụi cây:

- Vở chùng, vở chùng... (Vợ chồng, vợ chồng).

Rồi nghe tiếng bụi cây xô dạt về phía bản. Tôi dừng chân, cười cười và nghếch mắt lên nhìn, nhưng bó cỏ bù xù trên đầu, khiến tôi không biết là đứa nào. Mỷ thì vội đứng cách xa tôi một quãng và chỉ tay, bặm môi hăm doạ bọn trẻ.

Cả bản chỉ có hơn chục nóc nhà. Nhà trưởng bản Mí Tủa to nhất, tuy mái cũng lợp cỏ tranh, nhưng vách lịa ván thông. Những ngôi nhà khác thì vách thưng bằng cây trúc. Mấy nhà mới chuyển đến thì ken tạm bằng cây ngô. Trưởng bản Mí Tủa cũng ít con nhất, chỉ có Mỷ và Páo thôi. Trưởng bản phàn nàn về chuyện không bắt được nhiều con. Tôi động viên:

- Nhà nước chỉ cho mỗi cặp vợ chồng đẻ từ một đến hai con thôi. Mình làm trưởng bản, gương mẫu là đúng lý.

Bà Mí tủa vừa tước lanh, vừa cười cười, nói chen vào:

- Mình biết ăn cái lá, hết đẻ thôi.

Tôi cười trừ, tán tếu:

- Ông bà trưởng bản đặt tên cho con giỏi đấy. Mỷ là cô tiên nhá, mà cũng đẹp như tiên. Páo là con rồng nhá, mà cũng giỏi như rồng.

Trưởng bản cười hơ hớ:

- Không biết bao giờ con Mỷ mới lấy chồng, thằng Páo mới lấy vợ, đẻ con, để tao được gọi là ông Dúng Tủa, Vản Tủa, cứ để mọi người phải gọi là Mí Tủa mãi thôi.

Mỷ liếc xéo tôi một cái, rồi lặng lẽ đứng dậy ra ngoài thái cỏ ngựa. Thằng Páo nhìn tôi chòng chọc.

Lớp học cũng chẳng khác gì nhà dân nghèo, cũng lợp cỏ tranh, cũng thưng cây trúc; chỉ khác là có những bộ bàn ghế học sinh. Chân bàn, chân ghế là những cọc gỗ tống quá chôn xuống nền nhà. Những cây trúc to, ghép lại, đặt lên trên những cái cọc thấp làm ghế ngồi. Những tấm gỗ thông đặt trên những cái cọc cao làm bàn viết. Buồng riêng của tôi ở ngay cuối lớp. Tôi xin đồn biên phòng mấy mảnh vải nhựa, căng xung quanh cho kín đáo và ấm cúng. Góc buồng có kê một cái trạn bát làm bằng trúc. Ba hòn đá đặt ở góc nhà làm bếp nấu ăn. Can rượu ngô lúc nào cũng túc trực bên cạnh. Đầu chái, tôi quây một cái buồng tắm. Đây là cái buồng tắm duy nhất trên đỉnh Mã Pì Lèng. Lớp học ở gần nhà trưởng bản. Người nhà trưởng bản mỗi khi  qua lại đều phải đi sát buồng tôi. Tôi để ý, cứ mỗi khi tôi tắm là Mỷ không dám đi qua. Chờ cho tôi vào nhà, rồi mới căm cắm rảo bước. Tôi ngó qua khe trúc, giặng hắng một tiếng, tức thì, Mỷ như mũi tên lao vọt qua. Tôi khoái chí cười một mình.

Bây giờ, Mỷ hay đi cắt cỏ ngựa thay cho Páo. Tôi cũng hay lân la đến bên gốc sa mu cổ thụ, thổi kèn lá:

      "Em ơi,
              Đã nói nhiều nhưng ta chưa tỏ. .. "(2)

Tiếng cắt cỏ ngừng bặt. Tôi hồi hộp dõi lên vạt rừng. Bỗng có tiếng kèn lá cất lên:

      "Anh ơi!
             Chúng mình dù tâm sự đẹp ngần nào
 ... "(3)

Chợt có tiếng trẻ con cười rúc rích trong bụi cây. Mỷ bốc một nắm đất ném rào rào. Bọn trẻ con lốc nhốc cõng nhau chạy lên bản. Thì ra, chúng đã rình mò. Tôi lững thững về bản, trong lòng lo sợ bọn trẻ con lẫn chuyện với trưởng bản. Nhưng tiếng kèn lá lại vút lên:

      "Anh ơi,
             Em muốn nói với anh bằng điều khác... "
(4)

Chiều biên cương tím biếc. Sương giăng mờ lũng núi. Tiếng chuông bò loong coong về bản. Khói lam quyện trên những mái tranh. Hun hút dưới chân núi, dòng sông Nho Quế nhạt nhoà như một dải thắt lưng xanh xanh, huyền huyền ảo ảo.

Tối hôm đó, như thường lệ, tôi lên nhà trưởng bản chơi. Vừa đến sân, tôi đã nghe tiếng trò chuyện rì rầm khác thường. Tiếng ông Mí Tủa: "Nhù già nhù, tử già tử - Bò là bò, trâu là trâu, không lẫn lộn được. Ta là người Mông trên núi, thày giáo là người Kinh dưới ruộng... ". Tiếng bà Mí Tủa: "Nó dạy học hết ba năm thôi. Về xuôi, nó bỏ mày". Tiếng thằng Páo: "Tôi bảo Mỷ yêu thày giáo, không yêu, đứa khác nó yêu mất đấy".

Mấy hôm sau, tôi bảo với trưởng bản là, lên đồn biên phòng bàn chuyện "xoá mù". Mỷ cũng xin đi ăn cưới cái bạn là Tiên, ở xóm người Giấy bên sông Nho Quế. Nhưng kỳ thực, chúng tôi hẹn gặp nhau ở cầu Tràng Hương. Tôi cầm cành lá đợi Mỷ trên cầu. Một lúc, thấy bóng Mỷ dắt ngựa xuống núi, tôi liền ngậm lá, thổi một hồi:

      "Em ơi,
             Tình yêu đôi ta đẹp thế này
             Đã nói nhiều nhưng đôi ta chưa tỏ
             Vẫn còn điều bí ẩn ở thắt lưng em
... "(5)

Mỷ cũng buộc ngựa, thổi lá:

      "Anh ơi,
             Chúng mình dù tâm sự hay đến mấy
             Nhưng gặp nhau
             Em muốn nói cùng anh chưa tỏ
             Nhưng vì chưa biết cõi lòng anh... "
(6)

Tôi cùng Mỷ dắt ngựa qua cầu. Mỷ sánh vai bước bên tôi. Cầu treo rung rinh in bóng hình nhạt nhoà trên sóng nước. Tôi ngây ngất như bước trên mây. Mỷ cũng bâng khuâng như lướt trên gió. Ngược dốc, Mỷ đẩy tôi lên ngựa, rồi nắm đuôi ngựa mà chạy theo. Khi ngựa qua sườn núi, Mỷ ngồi gọn trong lòng tôi trên lưng ngựa. Má đỏ au và thơm như táo chín, môi đỏ mọng như hoa đào ngậm sương, mắt nhìn thăm thẳm trời thu biên thuỳ, cánh tay trắng ngần của Mỷ quàng lên cổ tôi. Chúng tôi hôn nhau mê mải. Ngựa quen đường, phi nhong nhong. Đến đầu dốc, tôi xuống ngựa cho Mỷ về trước. Khi chia tay, Mỷ cúi xuống hôn tôi, khiến cái váy lanh trùm xuống cả vai... Mãi đến khi con ngựa sốt ruột bậm bạch gõ móng xuống đường mòn và vươn cổ hí vang, chúng tôi mới rời nhau.

♣♣♣

- Thày giáo, Mỷ ăn lá ngón rồi.

Thằng Páo gọi thất thanh qua cửa liếp. Tôi vội cùng nó nhảy lên lưng ngựa, phóng như bay xuống bệnh viện huyện. Vừa phi, tôi vừa gọi Mỷ, vang động cả núi rừng. Xộc vào phòng cấp cứu, tôi thấy Mỷ chỉ còn thoi thót thở. Tôi nấc lên. Mỷ nhìn tôi đau đáu. Khuôn mặt Mỷ chợt rực rỡ, đẹp bội phần như tiên giáng trần trong giây lát, rồi đồng tử dãn dần. Bác sỹ lắc đầu tuyệt vọng. Ông Mí Tủa hộc lên một tiếng, rồi đi ra ngoài. Bà Mí Tủa gục bên xác Mỷ. Thằng Páo gào lên:

- Mỷ ơi, bố mẹ ưng ý rồi mà!

♣♣♣

Ngôi mộ của Mỷ đặt dưới chân núi Mã Pì Lèng. Tuần nào cũng vậy, tôi từ bản lên phòng giáo dục và sáng thứ hai lại có mặt ở lớp. Đi qua, lần nào tôi cũng ngồi bên mộ, có hôm nửa đêm, có hôm trời sáng mới rời. Một đêm trăng suông, tôi ngồi bên mộ, sương ướt đầm vai áo, chợt nghe mơ hồ như có tiếng kèn lá từ trời cao vọng về:

      "Anh ơi...
             Đã nói với nhau nhiều nhưng chưa nói hết
             Vẫn còn điều ngây ngất ở trong em... "
(7)

Có mùi hương toả ra ngoà ngạt. Mỷ hiện lên, thấm hơi sương lạnh giá, ánh mắt nồng nàn như xưa, làn môi đằm thắm như xưa, khẽ cất tiếng thì thào như gió thoảng:

- Mỷ biết anh còn thương Mỷ nhiều, yêu Mỷ nhiều mà.

- Mỷ à, anh chỉ thương em thôi. Đất này chỉ có mình anh là đỉnh Mã Pì Lèng, cũng chỉ có mình em là sông Nho Quế thôi. Ta mãi bên nhau. Sao em vội bỏ anh mà đi, bố mẹ đồng ý rồi mà...

- Đá lở, cây đổ rồi, không làm lại được nữa đâu. Nhưng mà anh thương được cái Tiên ở bản người Giấy thì tốt đấy.

Tôi than khóc ầm cả lên. Dòng sông, đỉnh núi cũng đồng vọng ồi ồi... Giật mình tỉnh dậy, mới biết là mình nằm mê.

Lần sau, lại đến thăm mộ, tôi thấy một cô gái người Giấy, giống Mỷ như hai giọt nước, liền hỏi:

- Cô là Tiên, phải không?

Cô gái gật đầu và bật cười khanh khách. Từ đấy, Tiên ngây ngây dại dại như bị ma làm, phục thuốc và cầu cúng mấy cũng không khỏi. Tiên cứ xé quần áo Giấy, đòi mặc quần áo Mông và gọi tên tôi thảm thiết.

Một đêm mưa to gió lớn, sấm rung đất chuyển. Mỷ lại hiện về, thì thầm:

- Mỷ biết cái lỗi rồi. Mỷ lại về với anh. Ngày mai, chờ ở gốc cây sa mu ngày xưa...

Hôm sau, trời quang mây tạnh, tôi ra thăm mộ Mỷ, thì sườn núi đã sạt lở, chẳng thấy ngôi mộ đâu nữa. Tôi buồn bã trở về, qua nẻo đường xưa, tới gốc sa mu cổ thụ, chợt sững sờ khi nhìn thấy một cô gái người Mông Trắng, đẹp như Mỷ, đang đứng bên khe nước. Cô gái cũng giật mình hoảng sợ khi đột nhiên nhìn thấy tôi như từ khe đá chui ra. Tôi định thần, vội nở nụ cười cầu thân:

- Mỷ à?

Cô gái không nói gì, lặng lẽ ứa hai hàng nước mắt.

Trại sáng tác Văn học dân tộc thiểu số
Nhà sáng tác Tam Đảo, 17-18/ 9/2001.

(1), (2), (3), (4), (5), (6), (7): dân ca Mông, theo sưu tầm của Hờ A Di



TRĂNG BẠC truyện ngắn BÍCH NGÂN









TRĂNG BẠC



    T ôi bảo tài xế dừng. Chiếc xe tang trườn thêm một đoạn cát rồi dừng lại trước ngôi nhà từng là của chúng tôi, ngôi nhà do cha tôi, người đang nằm trong quan tài, dựng nên.

    May là trời đã sụp tối, trước nhà trồng nhiều cây và cửa chính không thấy mở. Tôi bước xuống xe. Không cần ra hiệu, chiếc xe đi sau cũng dừng theo. Chị tôi, em gái tôi cũng bước xuống. Ba chị em đứng sát bên nhau, tần ngần câm lặng trước cánh cổng quen thuộc, khoảnh sân quen thuộc, ngôi nhà quen thuộc.

    Dĩ nhiên, cảnh vật không còn như xưa. Cánh cổng gỗ thâm thấp mà tôi có thể trèo qua dễ dàng mỗi khi mê chơi về muộn nay đã là cánh cổng sắt cao vượt đầu. Trước sân, hoa kiểng sống trong chậu nhiều hơn bám vào mặt đất. Chiếc xích đu sơn trắng của tuổi thơ chúng tôi cũng biến mất. Duy chỉ có ngôi nhà là không khác mấy. Vẫn là cái hộp vững chãi được chia ra thành những ô không đều nhau; những cái ô vuông vuông, dài dài với những cửa sổ tràn ánh sáng mặt trời, ấm áp và yên tĩnh. Cái ô sáng đèn trên kia từng là vương quốc của riêng tôi. Cạnh bên là lãnh địa bé nhỏ của chị tôi, em tôi. Căn phòng đang mở rộng hai cánh cửa trông ra khu vườn là phòng khách, nơi sum họp, nơi vui chơi...

    - Tới rồi sao ba? Thằng con trai mười sáu tuổi cao nhồng, cũng mặc chiếc áo xô trắng giống hệt tôi, đến cạnh tôi, cất tiếng khàn khàn.

    Chị tôi vội đưa ngón tay lên môi “suỵt “ một tiếng và nói khẽ như thì thào:

    - Dừng lại cho ông con thăm lại ngôi nhà lần cuối!

    Có tiếng guốc lộp cộp trong nhà. Không ai bảo ai, tất cả cùng quay gót và lặng lẽ lên xe.
    Khi xe chuyển bánh, tôi sờ tay lên nắp quan tài và ngoái lại nhìn ngôi nhà lần nữa.
    Đi tiếp chừng nửa cây số đến nhà chú Út, người em trai duy nhất của cha tôi. Có lẽ chú nhận được điện báo nên nhìn vào đã thấy sự chuẩn bị. Bàn ghế dọn sẵn trước sân. Trên mỗi bàn bày sẵn một bộ tách trà. Một bóng đèn néon sáng nhợt nhạt treo tòn ten trên một cành cây, nơi tiếp giáp giữa mái ngói rêu phong và khoảng sân nép mình dưới những thân cây xù xì tuổi tác. Vài bóng người thấp thoáng sau nhà. Chú cầm cây đèn dầu bước ra. Ông bước chậm, tay khum khum che ngọn gió. Tôi không nhìn rõ mặt chú, chỉ thấy mái tóc bạc, chòm râu bạc ngời lên trong vùng tối sáng. Chú đưa ngọn đèn ra phía trước, cất tiếng chắc gọn :

    - Cho xe lùi một chút!

    Khi cỗ xe tang trườn đến trước cổng, lối đi chính dẫn vào ngôi nhà, chú khoát tay ra hiệu cho tài xế dừng. Tôi mở cửa xe. Chú như bước hụt, sững lại trước chân dung của người quá cố. Ông nói gì tôi không nghe rõ, chỉ thấy những nén nhang trong tay chú run run.
    Khi chị em tôi đủ mặt trước linh sàn vấn vít khói hương, chú nói:

    - Theo tập tục, xưa nay kỵ động quan hai lần. Vì vậy, phải đành để cha các cháu nằm ngoài này cho đến giờ hạ huyệt sáng mai !

    Nói xong ông quay mặt, bước nhanh vào nhà. Chị tôi vặn cao ngọn đèn và thắp thêm nhang. Em gái tôi kéo góc khăn trắng che cặp mắt sưng mọng. Tôi thì không dám ngước nhìn cặp mắt khắc khoải chờ đợi của cha tôi.

    Không kèn không trống nhưng chỉ độ nửa giờ sau, bà con gần xa đã biết tin cha tôi trở về. Người nọ ới người kia. Không bao lâu, con đường làng vốn vắng vẻ vào giờ lên đèn đã thấp thoáng ánh sáng của những ngọn đuốc.

    Họ không đến tay không. Họ mang theo hoa trái nhang đèn, những thứ có thể lẹ làng cắt được hái được trong vườn nhà hay tạt mua ở một hiệu tạp hóa nào đó bên đường. Chú sai người kê hai chiếc ghế đẩu gần nhau và đặt chiếc nia lên. Dòng người viếng lần lượt đặt lễ vật vào đó.

    Bàn ghế không đủ ngồi. Chú trải rộng hai chiếc chiếu dưới mái hiên. Đàn bà con gái kéo xuống đất. Họ uống nước, cắn hạt bí và khơi lại trong trí nhớ hình ảnh của người quá cố. Cánh đàn ông sau một hồi khề khà nâng ly cạn ly đầu óc dường như trở nên minh mẫn. Nhiều người còn nhớ khá rõ về cha tôi.

    Tuy lầm lỳ ít nói nhưng cha tôi là người quyết đoán, biết làm và làm giỏi. Ông luôn là chủ nhân của ngôi nhà to nhất làng dù được xây bằng tranh, bằng ngói hay bằng cốt thép bê-tông. Trước những ngôi nhà bao giờ cũng là một vuông sân trồng nhiều loại hoa, nhiều nhất vẫn là mẫu đơn, loại hoa được những người đến viếng kết vội thành một bó to đặt trước chân dung ông. Còn sau ngôi nhà luôn là một mảnh vườn xum xuê cây trái. Nhiều người còn cả quyết rằng, xoài do cha tôi trồng ăn ngọt hơn, dừa do cha tôi chăm sóc nước uống cũng thanh thao hơn. Một cụ râu tóc bạc phơ mà tôi gọi bằng ông, khục khặc từng cơn ho còn cố ráp nối cho được ngày cưới của cha mẹ tôi và cái ngày cha tôi gần như quỵ ngã khi mẹ tôi đột ngột từ giã cõi đời. Cụ cho cha tôi là một người đàn ông thủy chung hiếm hoi, biết chung tình đối với cả nấm mồ của vợ.

    Chú tôi gần như không nói. Ông lừ lừ lắng nghe và lặng lẽ rót rượu, mời rượu.

    Khi người khách cuối cùng rời khỏi chiếc xe tang, chú ngấm rượu. Ông khoát tay ra lệnh cho chị tôi, em tôi, thằng con tôi và đám cháu chắt dắt díu hết vào trong nhà nghỉ để sáng mai đủ sức đưa cha tôi lên sườn đồi, nơi đặt hài cốt mẹ tôi và cũng là nơi an nghỉ cuối cùng của cư dân xứ sở. Lúc chỉ còn hai chú cháu, ông cầm ly rượu, bước liêu xiêu.

    - Cạn đi cháu! - Ly rượu sóng sánh, tràn xuống đất.

    Tôi cạn ly, thấy cuống họng vẫn khô và khát. Loay hoay một lát, tôi tìm thấy chai rượu còn đầy trong đám vỏ chai lăn lóc dưới gốc khế già. Chú giằng lấy và rót đầy ly. Bước thấp bước cao chú mang rượu cho cha tôi.

    Lúc quay vào, trông chú thật lạ lùng. Dường như chú hụt hơi vì mang vác. Tôi vội đứng lên đỡ lấy chú. Như một thân cây tróc gốc, chú ụp đổ xuống bàn, thút thít khóc như một đứa trẻ. Tôi muốn dìu chú vào trong nhà nhưng thấy lành lạnh. Ít ra có một người bên cạnh với một trái tim còn đang đập vẫn hơn một mình ngồi canh quan tài, dù đó là thân xác của cha tôi.

    Tôi tưởng chú đã lịm ngủ nhưng thình lình chú ngồi bật dậy. Chú nhìn tôi. Nhìn không chớp. Đôi mắt trở nên ráo hoảnh, dữ tợn. Ánh mắt nóng bừng bừng. Tôi rùng mình, co người lại trước cái nhìn thiêu đốt.

    - Sao cha cháu phải bỏ xứ mà đi ?

    Câu hỏi như bật ra từ lồng ngực. Chú nắm bàn tay đấm bình bịch vào ngực mình:

    - Bỏ xứ đi làm chi, anh ơi ?

    Nghe. Buốt nhói.

♣♣

Ngày cha tôi bán nhà, sang vườn tược đất đai và chuẩn bị ra đi có lẽ chú là người khổ tâm nhất tuy không cản ngăn, không kéo níu.
    Làm sao có thể ngăn cản, níu kéo khi chú rõ ý nguyện của cha tôi là được sống vui vầy với con cháu sau bao nhiêu năm xa cách. Và với một người không muốn ở lỳ một chỗ như cha tôi, không muốn suốt đời giới hạn tầm mắt bởi cái sườn đồi loang lổ trước mặt, trong ước muốn âm thầm, đó còn là dịp xê dịch, là cơ hội tìm kiếm một cuộc sống khác hơn. Mà có xa xôi Đông Tây gì đâu, chỉ bước lên xe, chịu ngồi già nửa ngày đường.

    Cái khoảng cách tưởng chừng thật gần ấy hóa ra bị kéo dài theo năm tháng, theo tuổi tác. Suốt hơn hai mươi năm đằng đẵng cha tôi không một lần quay về quê cũ. Ông không ngại con đường dằn xốc mà chỉ vì hành trình cuộc đời có những khúc quanh.

    Sau khi rời xứ sở và định cư tại thành phố, cha tôi chỉ thực sự sống hạnh phúc có mấy ngày chộn rộn đoàn viên. Rồi ai về nhà nấy, con đi làm, cháu đi học, cha tôi trở thành người giữ cửa, coi nhà.

    Nói là nhà, chứ thật ra nó chỉ gấp đôi căn phòng tràn ánh sáng của tôi trong ngôi nhà hình hộp kiên cố ngày xưa. Cửa chính duy nhất của căn phòng mở ra hành lang hun hút cùng với những cánh cửa giống hệt nhau, phải đánh dấu khác biệt bằng những con số. Cửa sổ không mở ra khoảng sân cũng không nhìn thấy bầu trời. Cửa sổ gần như che lấp bởi hàng rào quần áo.

    Cha tôi ngột ngạt, bức bối và tìm mọi cách xoay trở. Tiếc là khoản tiền bán nhà sang đất đã gởi hết vào ngân hàng. Và không may, chưa lấy được đồng lãi nào thì Nhà nước đổi tiền.

    Với số tiền còn lại, cha tôi quyết định mua một miếng đất trồng điều, trồng cà-phê ở tận vùng đất đỏ miền Đông. Tôi không tán thành, bàn ra. Ông nạt ngang: “Cam chịu như mày không phải là sống!”

    Ông còn lập lại câu đó nhiều lần. Lúc đầu nó còn ám, còn dày vò nhưng dần cũng nhàm. Nhàm như cái điệp khúc ca cẩm dai dẳng của vợ tôi. Nhàm như cái thanh âm hỗn độn của sinh hoạt cộng đồng. Ngày ngày tôi vẫn trung thành với công việc tẻ nhạt của một anh công chức, trung thành với gói mì ăn liền mỗi sáng, trung thành với ly cà-phê đen ở quán cóc đầu hẻm, trung thành với sự tù túng trong một căn phòng thiếu ánh mặt trời.

    Rồi cha tôi vấp ngã nơi miệng giếng khi gánh nước tưới cây. Ông đành bỏ lại mảnh đất để vào bệnh viện với chiếc chân bị gãy. Lúc chân trái vẫn còn băng bột cố định, nhưng thấy tôi, ông liền gượng dậy. Ông khuyên giải, ông nài nỉ tôi từ bỏ công việc chẳng nuôi nổi bản thân, từ bỏ cái sĩ diện hão của anh trí thức bàn giấy đã không tạo nổi cho vợ con cái cơ may hạnh phúc; thay ông trông coi chăm sóc vườn điều, vườn cà-phê đang ra hoa. Tôi không vội trả lời, xin ông cho tôi có thời gian.

    Tôi lưỡng lự. Tôi cân nhắc. Và tôi thấy sợ. Sợ nắng. Sợ gió. Sợ cái giếng sâu đến chóng mặt. Sợ gánh nước nặng trình trịch. Sợ cái màu đỏ quạch của đất đai bám vào da thịt. Sợ cái chòi tranh heo hút. Sợ thiếu vắng cái ồn ĩ, cái tiện nghi của thành thị. Sợ mất đi những thói quen đã thành máu thịt. Sợ phải thay đổi. Sợ sự bứt phá. Sợ mất lối mòn. Cha tôi tức giận gào lên: “ Sống như mày thà chết còn hơn!”

    Lần cuối, đứng chống gậy, bịn rịn nhìn vườn điều, vườn cà-phê cành lá xanh mượt, hoa kết từng chùm đã về tay kẻ khác, ông khóc.

    Trở lại sống giữa những bức tường bợt bạt vô hồn, cha tôi trở thành một con người khác. Một người thua cuộc. Một phế nhân. Một kẻ lòa không cò n trông rõ con đường, dù là con đường dẫn về nơi cắt rún chôn nhau.

   

♣♣♣

    Như đọc thấu được tâm can tôi, ánh mắt chú dịu đi. Ông không rót rượu nữa mà rót nước từ chiếc bình nguội lạnh. Ông uống một hơi hết ba tách nước rồi đứng dậy, vươn vai. Ông bước một mạch đến khạp nước đặt dưới mái hiên và vục mặt vào đó.
    Khi quay lại, vỗ vỗ vào vai tôi, chú nói:

    - Chú mắc cho mày cái võng ở dưới hiên, vào đó mà ngủ, để mình chú thức được rồi!
    Tôi đi được mấy bước, chú gọi lại :
    - Mà này, chú chưa nói, ba cháu. . . không nằm cạnh mẹ cháu được, tháng trước đã có người. . .
    Vậy là ý nguyện cuối cùng của cha tôi không thành. Tôi muốn thắp cho cha tôi một nén nhang. Khi đến gần, một lần nữa, tôi không dám nhìn vào đôi mắt ông.
    - Ờ. . .
    Chú bỏ lửng, không nói tiếp. Chắc chú còn giữ điều gì đó trong lòng.Tôi trở lại, ngồi xuống cạnh chú. Chú đặt tay lên vai tôi, gần gũi, tin cậy:
    - Miếng đất hương hỏa này chú sẽ giao lại cho cháu. Ráng mà gìn giữ. Sau này đem hài cốt ông bà cha mẹ về đây. . .

    Chú còn dặn dò một hồi dài. Tôi cố lên giây cót tinh thần cho đầu óc tỉnh táo. Nhưng những sợi thần kinh cứ nhũn ra.Tôi không thể tập trung lắng nghe và ghi nhận, dù biết đó là lời bộc bạch của một ông già đã thấm thía nỗi cô độc của kẻ không vợ không con và thiếu tình thân. Những cơn buồn ngủ rủ nhau kéo đến. Tôi lấy tay che miệng, ngáp. Bực, chú gắt: “ Thôi, ngủ đi!”.

    Tôi nằm dài trên võng, chỉ một lát sau, sự mỏi mệt rã rời đã đưa tôi chìm vào giấc ngủ cho đến khi nghe tiếng vỗ cánh phành phạch và tiếng gà gáy sát bên tai. Mắt tôi không mở nổi, cứ díu lại. Không ngủ không thức. Lềnh bềnh. Lềnh bềnh. Rồi tấp vào một bến bờ nào đó.Tôi gặp cha tôi. Ông gầy và yếu. Yếu đến nỗi không còn sức để giận dữ hay mắng mỏ. Ông bảo tôi tắt đèn đi, ông chói mắt lắm. Tôi tắt đèn. Ông nằm ho trong bóng tối. Nghe tiếng ho khản đặc của ông, chịu không nổi, tôi bật lửa thắp đèn. Ngọn đèn phựt cháy. Ngọn lửa bùng lên. Tôi bối rối không biết làm gì trước đám cháy ngày một lan rộng thì một bàn tay chộp cổ tôi, lôi đi. Tôi choàng tỉnh.

    Ngồi dậy, thoạt tiên, tôi nhìn ra cổng. Cỗ xe tang vẫn sừng sững, ngọn đèn vẫn kiên nhẫn giữ một đốm lửa đỏ quạch dưới trăng. Mặt đất, bầu trời, rặng cây, khu vườn, cỗ xe và bức chân dung nhìn không rõ đường nét của cha tôi như được nhuộm bạc. Cả một không gian bàng bạc sáng. Vô số chiếc bóng đổ xiên xiên xuống mặt sân, mặt đường. Bóng cỏ, bóng cây, bóng võng nhẹ lay theo ngọn gió. Bóng cỗ xe im lìm, bóng ngôi nhà bất động. Cả chị tôi, em tôi, không rõ ngồi sát bên nhau nơi chiếc bàn đặt dưới gốc khế từ lúc nào cũng thành hai chiếc bóng câm lặng. Tôi đưa mắt tìm chú. Chẳng thấy chú đâu. Chắc ông ngồi bó gối bên cạnh cỗ xe hay tha thẩn đâu đó dưới trăng.

    Vầng trăng cao hơn, xa hơn và lạnh hơn.


Tháng 2 năm 2001




NHẬT VỰNG truyện KHÔI HẠO

NHẬT VỰNG KHÔI HẠO      T   ôi bắt đầu câu chuyện kể như lời sám hối. Ý chừng chẳng còn gì để mất và cũng chẳng sợ mất điều gì! Tôi lao vào ...